Powered by RND
PodcastsTạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam
Latest episode

Available Episodes

5 of 45
  • Việt Nam giảm số tội danh lãnh án tử hình, theo xu thế chung của thế giới
    Kể từ ngày 01/07/2025, Việt Nam không còn áp dụng án tử hình đối với 8 tội danh, theo xu thế chung hiện nay của thế giới là dần dần xóa bỏ án tử hình. Việt Nam là một trong số ít quốc gia còn duy trì án tử hình. Như mọi năm, ngày 10/10/2025 đã là Ngày Thế giới Chống Án Tử hình. Ngày này do tổ chức Liên minh thế giới chống án tử hình tổ chức lần đầu tiên vào năm 2003 nhằm thống nhất phong trào bãi bỏ án tử hình toàn cầu và huy động xã hội dân sự, các nhà lãnh đạo chính trị, luật sư, dư luận xã hội… ủng hộ lời kêu gọi bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới.  Theo thống kê từ tổ chức Ân xá Quốc tế, 113 quốc gia đã bãi bỏ án tử hình đối với tất cả các loại tội phạm, 23 quốc gia đang bãi bỏ án tử hình trong thực tế, 54 quốc gia đang duy trì án tử hình, trong đó có Việt Nam.   Tuy nằm trong số các nước vẫn còn duy trì án tử hình, Việt Nam nay cũng đã giảm bớt số tội danh lãnh án tử hình. Cụ thể, ngày 25/06/2025, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, trong đó bỏ án tử hình với 8 tội kể từ 01/07, đồng thời chuyển sang tù chung thân với người bị tuyên tử hình về các tội này trước ngày 01/07. Tám tội danh không còn bị kết án tử hình bao gồm: Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109); Phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114); Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (Điều 194); Vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421); Gián điệp (Điều 110); Tham ô tài sản (Điều 353); Nhận hối lộ (Điều 354). Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ Công An Việt Nam đã nêu lên 4 lý do. Thứ nhất, thực tiễn cho thấy, “các tội danh này đã được đa số các nước trên thế giới không quy định hình phạt tử hình hoặc đang có xu hướng bỏ hình phạt tử hình.” Thứ hai, “nhiều nước trên thế giới đã yêu cầu Việt Nam phải cam kết không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tuyên nhưng không thi hành án tử hình đối với những vụ án về tham nhũng, chức vụ, nhưng Việt Nam chưa cam kết, cho nên khi Việt Nam yêu cầu tương trợ tư pháp có liên quan đến án tử hình thì gần như không có phản hồi.” Thứ ba, đây cũng là “xu thế chung của thế giới”, hiện nay đa số các quốc gia đều không áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội không phải là “tội ác”. Thứ tư, bỏ án tử hình cũng là nhằm “đảm bảo hiệu quả thu hồi tài sản, đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa; đồng thời khuyến khích người phạm tội hợp tác với cơ quan chức năng” Trả lời RFI Việt ngữ, luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt Luật ở Sài Gòn, nhận định: “Chúng tôi cho rằng việc Việt Nam bỏ án tử hình là một xu thế mà tất cả các quốc gia đều hướng tới. Thứ nhất là mang tính nhân văn, thứ hai là tránh oan sai, vì thông thường một quốc gia nào cho dù có tối tân về máy móc và chuyên môn đến đâu thì cũng dễ dẫn tới những oan sai về tội tử hình. Nếu mà đã tử hình rồi thì hậu quả là không lường được và không thể khắc phục được.  Chúng ta thấy là càng về trước thì những hình phạt càng nghiêm khắc, gần giống như là “trả thù” người phạm tội, chẳng hạn như cho vào vạc dầu, tứ mã phanh thây, rồi tùng xẻo, hoặc là tử hình bằng cách làm cho người phạm tội đau đớn nhất. Nhưng càng văn minh thì người ta càng bỏ những hình phạt mang tính độc ác như vậy. Cho nên hướng tới là Việt Nam cũng hòa nhập với xu thế của thế giới. Việc Việt Nam bỏ bản tử hình là một điều hết sức mang tính văn minh và hội nhập quốc tế cao. Có một điều mà tôi thấy các quốc gia cũng hay áp dụng, đó là tuy bỏ hình phạt tử hình nhưng thay vào đó là một án chung thân không giảm án, có nghĩa là tránh oan sai cho người phạm tội đó. Tôi cho rằng quy định đó cũng hợp lý: Không tước đi mạng sống của người phạm tội, nhưng họ vẫn phải chịu một hình phạt, đó là phạt tù mà không bao giờ giảm án. Việt Nam cũng có một sự tiến bộ là bỏ án tử hình nhưng có một hình phạt là không giảm án. Tôi cho đấy là cũng phù hợp với xu thế chung của các quốc gia.” Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ trưởng Tư Pháp Nguyễn Hải Ninh đã cho biết một phần là trong thời gian qua Việt Nam trên thực tế không áp dụng án tử hình với các tội đó. Việc bỏ hình phạt tử hình với các tội này cũng là nhằm “phục vụ hoạt động hợp tác quốc tế, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy các quan hệ ngày càng bền chặt và tin tưởng lẫn nhau.” Trong số các tội danh được bỏ án tử hình, có tội Vận chuyển ma túy. Nhiều người cho tới nay chỉ vì nhẹ dạ cả tin, hoặc vì túng quẫn làm liều, hoặc hám lời, đã nhận vận chuyển dùm cho các đường dây buôn ma túy nên phải chịu hình phạt cao nhất là tử hình. Luật sư Hoàng Cao Sang giải thích:  “Trong nhóm tội phạm ma túy, trước đây có ba hành vi đưa đến mức cao nhất của khung hình phạt đó là tử hình: Tội sản xuất ma túy, tội mua bán ma túy và tội vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, đến lần sửa đổi luật vừa rồi thì Việt Nam bỏ tội vận chuyển ma túy, còn tội sản xuất và tội mua bán thì vẫn giữ ở khung hình phạt tử hình. Tôi cho rằng đối với 3 hành vi nghiêm trọng có mức khung hình phạt tử hình thì vận chuyển là hành vi nhẹ nhất, ít gây nguy hiểm nhất so với hai hành vi kia. Cho nên nhà nước bỏ tội tử hình đối với hành vi vận chuyển cũng là hợp lý.” Một điểm đáng chú ý khác đó là trong danh sách các tội không còn áp dụng án tử hình, có tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109). Theo các tổ chức nhân quyền quốc tế, điều 109 là một trong những điều luật có nội dung mơ hồ và có thể diễn giải tùy tiện trong Bộ Luật Hình sự  mà chính quyền Việt Nam thường sử dụng kết án tù các nhà hoạt động chính trị và tôn giáo, với hình phạt cao nhất là chung thân và tử hình. Các tổ chức nhân quyền đã từng kêu gọi Hà Nội hủy bỏ hoặc sửa đổi điều luật này cho phù hợp với các nghĩa vụ Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị. Có lẽ chính là dưới áp lực của quốc tế mà Việt Nam đã bỏ án tử hình đối với tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Về điểm này, luật sư Hoàng Cao Sang ghi nhận:  “Xu thế của các quốc gia trên thế giới đều là không áp dụng hình phạt tử hình. Cho nên trong tội hoạt động lật đổ chính quyền, họ cũng yêu cầu không thực hiện việc tử hình đối với hành vi mà trước đây Bộ Luật hình sự Việt Nam cho là một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, cần phải tách ly người này ra khỏi cuộc sống xã hội. Tôi cho rằng bây giờ xã hội đã ổn định hơn và theo xu thế hội nhập thì cũng phải bỏ tội danh đấy và tôi nghĩ  thế giới cũng tránh việc một bộ luật lạm dụng điều đó để khống chế hoạt động của người dân nhằm phát triển quyền của con người. Trong thời gian qua, khi bộ luật có sửa đổi với việc bỏ 8 tội danh này thì tôi thấy là dư luận hay nhắc đến tội tham ô, nhận hối lộ, rồi tội vận chuyển trái phép chất ma túy, còn đối với các tội danh khác thì người dân ít quan tâm, hoặc là vì một lý do nhạy cảm nào đó người dân ít nhắc tới. Nhiều khi hành vi cũng không quá nghiêm trọng, nhưng rớt vào điều 109 này, tôi nghĩ nếu áp dụng khung hình phạt tử hình thì cũng hơi nghiêm khắc, cho nên tôi cho rằng bỏ cái hình phạt tử hình đối với tội danh hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân dân cũng là hợp lý.” Riêng với tội Tham ô tài sản và tội Nhận hối lộ, sau khi bỏ hình phạt tử hình, "nhằm bảo đảm thu hồi tài sản và khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo", luật sửa đổi có quy định người bị kết án tù chung thân có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt “khi chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng.”  Nhưng như vậy thì phải chăng các quan chức cứ việc tham ô, nhận hối lộ, nhất là nay không còn án tử hình nữa và nếu có bị phát giác, bị đưa ra xử thì chỉ cần hoàn trả lại tiền tham nhũng là được giảm án? Luật sư Hoàng Cao Sang nêu ý kiến:  “Tôi thì thì lại không hiểu như vậy, vì tất cả mọi điều luật đều có quy định rằng khắc phục hậu quả thì sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi truy tố xét xử. Cho nên đối với người phạm tội tham ô mà có đóng lại khoản tiền, xem đó là tình tiết giảm nhẹ để giảm án thì tôi cho rằng cũng phù hợp với các tội danh khác. Tuy nhiên, trong thời thời gian vừa rồi, có những trường hợp mà đóng tiền lại thì được giảm án quá "sâu" so với quy định thì dư luận cũng không đồng tình. Trước mắt, vì là người phạm tội bị kết án tử hình trước ngày 01/07, bà TRươngMỹ Lan, chủ tịch tập đoàn Đại Thịnh Phát, trên nguyên tắc có thể được xem xét chuyển hình phạt từ tử hình xuống chung thân, nhưng việc bà "khắc phục hậu quả" như thế nào chắc chắn sẽ được dư luật tiếp tục quan tâm. Quốc tế dĩ nhiên đã hoan nghênh việc Việt Nam xóa bỏ án tử hình đối với 8 tội danh, chẳng hạn vào ngày 08/08/2025, đồng chủ tịch Viện Nhân quyền thuộc Hiệp hội Luật sư Quốc tế (IBAHRI) Mark Stephens đã ra thông cáo nhấn mạnh: "Bước đi lịch sử này của Việt Nam đánh dấu một bước phát triển đáng kể, hòa nhập hơn với xu hướng xóa bỏ án tử hình trên toàn cầu. Với nghĩa vụ không trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ án tử hình theo Điều 6(6) của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), IBAHRI kêu gọi Việt Nam tiến tới xóa bỏ hoàn toàn án tử hình đối với mọi tội phạm." Việt Nam hiện vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với các tội phản quốc (Điều 108); tội nổi loạn (Điều 112); tội khủng bố nhằm chống Chính phủ (Điều 113); tội giết người (Điều 123); tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); tội khủng bố (Điều 299); tội ác chống nhân loại (Điều 422); và tội ác chiến tranh (Điều 423). Theo IHBARI, dữ liệu về việc áp dụng án tử hình tại Việt Nam được cho là bí mật nhà nước, gây khó khăn cho việc xác định số liệu chính xác về việc áp dụng hình phạt này. Cũng trong thông cáo nói trên, đồng chủ tịch IBAHRI, bà Hina Jilani, kêu gọi Việt Nam “ tăng cường minh bạch trong việc áp dụng án tử hình, bao gồm việc cung cấp dữ liệu đầy đủ và chính xác về các bản án tử hình, các vụ hành quyết và các điều kiện giam giữ tại khu tử tù.” 
    --------  
  • Du lịch Việt Nam: Đà phục hồi bị ảnh hưởng bởi yếu tố kinh tế, địa chính trị
    Kể từ sau đại dịch Covid-19, ngành du lịch Việt Nam đã dần dần phục hồi, số du khách quốc tế đã tăng mạnh trở lại. Tuy nhiên, nhiều yếu tố địa chính trị, đặc biệt là chiến tranh Ukraina, vẫn ảnh hưởng đến đà phục hồi này.  Diễn ra từ ngày 23/09 đến 25/09/2025, tại Paris, IFTM Top Resa là triển lãm du lịch quốc tế hàng đầu thế giới, quy tụ hơn 3.000 doanh nghiệp từ hơn 100 quốc gia. Đây là dịp rất quan trọng để các doanh nghiệp lữ hành kết nối với nhau, cho nên nhiều nước đã có hẳn một không gian riêng để quảng bá cho du lịch quốc gia. Riêng Việt Nam không có gian hàng quốc gia, nhưng có một khu triển lãm của thành phố Hà Nội, với sự tham gia của hãng hàng không Vietnam Airlines và 11 doanh nghiệp lữ hành chuyên tổ chức các chuyến du lịch Việt Nam cho khách từ châu Âu. Một vài doanh nghiệp khác thì có gian hàng riêng.  Top Resa 2025 diễn ra trong bối cảnh ngành du lịch Việt Nam tiếp tục con đường phục hồi sau đại dịch Covid-19 tuy nhiên cũng phần nào bị tác động của tình hình kinh tế khó khăn trên toàn cầu cũng như tác động của những đảo lộn địa chính trị, nhất là chiến tranh Ukraina.  Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm, ông Trần Sơn, giám đốc công ty Vietspace Travel, được thành lập từ năm 2002, cho biết:  “Sau dịch, hoạt động của ngành du lịch nói chung đến với Việt Nam đã từng bước được phục hồi. Chính phủ Việt Nam cũng đã tạo điều kiện hết sức cho tất cả khách nước ngoài nói chung, cũng như cho các doanh nghiệp đưa khách du lịch vào Việt Nam. Chúng tôi cũng nằm ở trong số đó, nhưng sau đại dịch thì hoạt động nói chung phục hồi hơi chậm, vì nhiều lý do. Một lý do là kinh tế toàn cầu không được thuận lợi. Thói quen trong thời gian đại dịch làm cho người ta cũng thay đổi. Chi phí cho tất cả những sinh hoạt đã có những thay đổi nhiều, người ta thận trọng hơn trong chi tiêu. Một lý do nữa là trên thế giới có nhiều thay đổi về chính trị và một số nước đang có chiến tranh. Do vậy đường bay cũng ảnh hưởng, khiến giá vé trở nên đắt đỏ. Mặc dù Việt Nam cũng đã có những cải thiện rất tốt về dịch vụ cũng như về giá cả, nhưng đấy là một trong những nguyên nhân làm cho khách du lịch chưa được nhiều. Tôi hi vọng sắp tới sẽ được nhiều hơn.  Cụ thể thì chiến tranh Ukraina đã ảnh hưởng như thế nào đến các đường bay của những hãng hàng không tới Việt Nam trong thời gian qua?  Ví dụ đường bay ở phía Bắc Âu. Trước đây người ta có thể đi thẳng hoặc là chỉ transit ( quá cảnh ) một chặng đến Việt Nam. Hoặc là đối với Nga thì trước đây người ta có những chuyến bay charter đến Việt Nam, trực tiếp đến Khánh Hòa, Nha Trang, hoặc Phú Quốc. Nhưng sau đó, do ảnh hưởng của chiến tranh, các hoạt động trên đường bay đó có những thay đổi và chính vì đường bay thay đổi nên lượng máy bay cũng ít đi, làm cho giá cả tăng lên. Đấy là một tác động rất lớn đến tài chính. Khách vốn đã giảm bớt chi tiêu sau dịch bây giờ phải gánh thêm một chi tiêu khác. Tất nhiên người ta vẫn thích bay thẳng, đỡ mệt mỏi, nhưng bây giờ thì phải bay khá nhiều chặng. Vé máy bay lại tăng lên, đấy là một điều khiến người ta phải suy nghĩ lại."  Ông Đỗ Quang Tiến, giám đốc công ty Typic Travel ở Hà Nội, cũng nhìn nhận tác động của yếu tố địa chính trị đối với du lịch Việt Nam, nhưng ông nhận thấy là số khách từ châu Âu đang tăng trở lại, vì Việt Nam nay được xem là một điểm đến an toàn so với một số nước láng giềng Đông Nam Á: “Lẽ ra sau Covid, nếu không có chiến tranh ( Ukraina ) thì Việt Nam sẽ là một điểm đến được rất nhiều du khách lựa chọn. Tuy nhiên chính phủ Việt Nam cũng nhận thấy tình hình đó và đã có những chính sách rất phù hợp và kịp thời,thứ nhất là mở cửa sớm và thứ hai là miễn thị thực cho rất nhiều nước thuộc Liên Hiệp Châu Âu và Châu Âu nói chung. Biện pháp đó đã kích thích, làm tăng một lượng khách đến Việt Nam rất là lớn. Trong năm 2023, 2024, lượng khách quốc tế từ Châu Âu tới Việt Nam tăng vọt và nhiều hơn so với trước Covid 2019 khoảng từ 20 cho đến 40%. Đấy là một dấu hiệu rất tích cực. Mặc dù cũng có bị ảnh hưởng bởi tình hình địa chính trị thế giới và chiến tranh ở châu Âu, tuy nhiên, hiện tại, sau Covid, mọi người có nhu cầu khám phá và chọn điểm đến an toàn, trong đó Việt Nam cũng luôn là một điểm đến được lựa chọn bởi khách du lịch châu Âu, trong đó Pháp và Đức là hai quốc gia có lượng khách du lịch đến Việt Nam nhiều nhất kể từ 2022, 2023 và 2024 cho đến nay.  Khách cũng có sự lựa chọn nhất định. Phần lớn là khách thường có tiền một chút thì mới đi. Mức chi tiêu trước Covid rất là tốt, nhưng sau Covid, về mức chi tiêu cho những dịch vụ gia tăng tại chỗ thì họ dè chừng hơn. Tuy nhiên họ lại sử dụng những dịch vụ cao cấp hơn, chọn những khách sạn bốn, năm sao, hoặc những khu nghỉ dưỡng chuẩn quốc tế nhiều hơn so với trước Covid. Trước Covid phần lớn người ta đi theo cách, một là “bụi”, hai là sử dụng dịch vụ có mức hạn chế về chỗ ăn chỗ ở, còn lại họ dùng tiền để chi tiêu cho mua sắm. Bây giờ ngược lại họ dành chi tiêu cho việc lưu trú tốt và phần lớn không mua sắm nữa. Người Pháp hay người Đức hay người châu Âu nói chung vẫn thích điểm đến Việt Nam so với một số các nước khác. Văn hóa Việt Nam hay, phong cảnh đẹp, người dân thân thiện và đặc biệt là ăn uống rất ngon với một mức giá vô cùng rẻ so với mức sinh hoạt tại châu Âu. Trong khi đó thì các nước bên cạnh như Cam Bốt, Thái Lan hoặc xa hơn một chút là Indonesia, Malaysia, Philippines thì đều có những xáo trộn về chính trị. Chính vì vậy mà khách du lịch châu Âu lẽ ra chọn Thái Lan, Philippines, Malaysia hoặc Indonesia để đi, thì do tình hình bất ổn đó, họ đã thay đổi kế hoạch. Khoảng 30 đến 40% những khách đã có ý định đi Thái Lan hoặc các nước bên cạnh Việt Nam thay đổi ý định và chọn Việt Nam, vì Việt Nam vẫn là một điểm đến thứ nhất là thân thiện, thứ hai là an toàn, thứ ba là phong cảnh và văn hóa rất đẹp cùng với chi phí có thể nói là rẻ nhất trong khu vực Đông Nam Á, với một dịch vụ gần như là tốt nhất với chi phí đó.”  Theo số liệu thống kê, trong 8 tháng đầu năm nay, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 13,9 triệu lượt người, tăng gần 22% so với cùng kỳ năm trước. Châu Á là khu vực có nhiều khách quốc tế lớn nhất tại Việt Nam với gần 11 triệu lượt khách, tiếp đến là châu Âu với gần 1,8 triệu lượt khách.  Nhằm thu hút thêm du khách châu Âu đến Việt Nam, chính phủ Hà Nội đã quyết định miễn thị thực 45 ngày cho thêm 12 nước ở châu lục này ( Bỉ, Bulgari, Croatia, Cộng hòa Séc, Hungary, Luxembourg, Hà Lan, Ba Lan, Rumani, Slovakia, Slovenia và Thụy Sĩ )   Đối với ông Trần Sơn, giám đốc công ty Vietspace, ngoài chính  sách miễn thị thực, chính phủ cần có một kế hoạch dài hạn hơn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lữ hành:  “Đấy là một chính sách rất cởi mở, chủ động, để chào đón khách trở lại Việt Nam và chứng minh Việt Nam đã có sự chuẩn bị và có những cơ sở rất tốt về dịch vụ. Trước mắt thì đương nhiên giải quyết vấn đề về visa, nhưng dài hơn nữa là phải có chính sách 5 năm, 10 năm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ở Việt Nam. Công ty chúng tôi thì đang cố gắng. Các đối tác cũ hầu hết tất cả đã quay lại, đã nối lại để làm việc. Nhưng đối với những người mới, chúng tôi cũng đang cố gắng để giới thiệu cho các khách hàng này. Giới thiệu ở đây là giới thiệu về văn hóa ẩm thực và các sản phẩm mới. Vì sau dịch đã có rất nhiều sự thay đổi tốt hơn. Dịch vụ ở Việt Nam rất sẵn sàng để phục vụ. Nhưng còn còn về phía Pháp nói riêng và tất cả các nước nói chung, điều này tùy thuộc vào khách hàng và tùy thuộc hoàn cảnh chung của thế giới, về tài chính, về tình hình chiến sự vân vân…” Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đạt 25 triệu lượt du khách quốc tế trong năm 2025. Tuy nhiên, trên báo chí trong nước, các chuyên gia về du lịch của Việt Nam cho rằng ngành du lịch không nên dựa hoàn toàn vào chính sách miễn visa. Khách có đến đông, tiêu nhiều tiền và ở lâu hay không phần lớn vẫn phụ thuộc vào các sản phẩm du lịch có đủ sức thu hút khách đến mức nào. Bên cạnh đó là cách thức quảng bá cho du lịch Việt Nam. Ngoài việc tham gia các triển lãm du lịch lớn như Top Resa ở Paris, các chuyên gia đề nghị Việt Nam mở những văn phòng xúc tiến du lịch tại các thị trường quan trọng, như cách mà các nước láng giềng như Malaysia hay Thái Lan đang làm. Về phần giám đốc công ty Typic Travel, trước tình hình số du khách vào Việt Nam đang tăng trở lại, một thách thức đối với các doanh nghiệp lữ hành đó là đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch, hiện đang thiếu rất nhiều kể từ sau Covid: “Dự kiến từ năm nay đến năm 2026, lượng khách du lịch quốc tế sẽ đến Việt Nam nhiều hơn nữa. Việt Nam cũng đang cố gắng củng cố và xây dựng các cơ sở hạ tầng tốt nhất, những khu nghỉ dưỡng hoặc những điểm đến thực sự hay, đồng thời  có kế hoạch đào tạo nhân lực chuyên nghiệp. Sau Covid thì nhân lực về du lịch cũng mất rất là nhiều. Nhiều người đã chuyển sang những nghề khác nhau. Việt Nam đã bắt đầu từ 2022 kế hoạch đào tạo nhân sự mới, để làm sao đáp ứng được tất cả các nhu cầu phục vụ khách du lịch quốc tế. Việt Nam bây giờ có rất nhiều khách du lịch quốc tế với nhiều ngôn ngữ khác nhau. Số người nói tiếng Anh, Pháp, Đức hay Tây Ban Nha, hay nói tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Trung Quốc đều có, nhưng ở một mức vẫn còn hạn chế, có nghĩa là không đủ nhân lực để cung cấp cho một lượng khách du lịch đang đến rất là đông.  Không thể đào tạo ngay được nhân lực chuyên nghiệp, sẽ phải mất tối thiểu từ một năm đến ba năm để làm việc đó.”
    --------  
  • Việt Nam : Người lao động bị giảm thu nhập, làm việc thêm giờ do ô nhiễm, nhiệt độ cực đoan
    Ô nhiễm không khí và nắng nóng kéo dài không chỉ tác động đến sức khỏe và tỉ lệ tử vong, mà còn ảnh hưởng đến việc làm tại Việt Nam. Một bộ phận người lao động phải làm việc thêm 1 tiếng 45 phút và bị giảm thu nhập 129.000 đồng/tháng trong những giai đoạn như vậy. Đây là một trong những nhận định được nêu trong nghiên cứu “Nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm ảnh hưởng đến hiệu suất lao động ở Việt Nam như thế nào?” Nghiên cứu được ông Nguyễn Việt Cường, viện phó Viện Nghiên cứu Phát triển Mêkông và kinh tế gia Cecilia Poggi, Cơ quan Phát triển Pháp - AFD thực hiện trong khuôn khổ Dự án GEMMES Việt Nam và được đăng trong số 79 AFD Research Paper (Tài liệu Nghiên cứu của AFD), tháng 07/2025. Kinh tế gia Cecilia Poggi, điều phối các chương trình nghiên cứu liên quan đến bảo trợ xã hội, thế giới lao động và hòa nhập xã hội tại AFD, đã dành cho RFI Tiếng Việt buổi phỏng vấn về chủ đề này. RFI : Vào cuối tháng 7 trong Tài liệu Nghiên cứu của AFD, ông Nguyễn Việt Cường và bà đã xuất bản một nghiên cứu về "Tác động của nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm không khí đối với nguồn cung lao động và thu nhập: dữ liệu từ Việt Nam". Tình hình ở Việt Nam đáng báo động đến mức nào để một nghiên cứu như vậy được thực hiện ? Cecilia Poggi : Tình hình hiện nay vẫn chưa hoàn toàn đáng báo động. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng với việc các đợt nắng nóng cực đoan ngày càng trầm trọng, chẳng hạn như đợt nắng nóng 44°C được ghi nhận vào tháng 04/2024 ở miền Bắc Việt Nam, cùng với các đợt ô nhiễm ngày càng gia tăng, những câu hỏi như thế này cần được đặt ra. Các dữ liệu cũng cho thấy rõ điều đó. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, gây thiệt hại khoảng 3,2% GDP vào năm 2020. Và mặc dù đã có các chính sách chủ động nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí, Việt Nam vẫn luôn có mức độ bụi mịn PM2.5 cao, tương đương với Trung Quốc và cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu trong hơn 20 năm qua. Đọc thêmViệt Nam: Cá chết hàng loạt do nắng nóng khủng khiếp Những mối đe dọa môi trường này không phải là những rủi ro trừu tượng. Chúng gây ra hậu quả trực tiếp đến sức khỏe, khả năng làm việc và khả năng kiếm sống của người dân. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi tìm hiểu tác động của nắng nóng cực đoan và ô nhiễm không khí đến công việc của người dân tại Việt Nam. Cụ thể, chúng tôi muốn tìm hiểu xem những hiện tượng đó đã khiến một số người ngừng làm việc hoặc ít tích cực tìm việc như thế nào, cũng như ảnh hưởng ra sao đến hiệu suất làm việc của họ, bằng cách phân tích dữ liệu từ tất cả khu vực tại Việt Nam từ 2015-2022. RFI : Nghiên cứu nêu rằng không thấy những tác động đáng kể của nhiệt độ cực đoan hoặc ô nhiễm không khí đến sự tham gia của lực lượng lao động nhưng các tác giả đã quan sát thấy nhiều tác động nhỏ nhưng đáng kể đến thời gian làm việc và thu nhập. Có thể giải thích hiện tượng này như thế nào ? Cecilia Poggi : Nhìn chung, mọi người không nghỉ việc vì những thay đổi bất thường về thời tiết hoặc ô nhiễm. Do đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động vẫn ổn định. Tuy nhiên, thực tế lại tế nhị hơn. Nắng nóng gay gắt hoặc một ngày ô nhiễm cao khiến khó có thể duy trì số giờ làm việc hoặc năng suất tương tự như bình thường. Điều này có thể được giải thích bởi những tác động đến sức khỏe, như mệt mỏi hoặc các vấn đề về hô hấp, hoặc chủ ý giảm tốc độ làm việc vì lý do an toàn. Và chúng tôi chứng minh rằng việc làm vẫn còn, nhưng khả năng làm việc với năng suất tương đương có thể bị ảnh hưởng, đặc biệt là trong giai đoạn ô nhiễm nghiêm trọng hơn mức bình thường. Đọc thêm Ô nhiễm không khí ở Hà Nội: Giải pháp không phải đơn giản Ví dụ, chúng tôi nhận thấy rằng một ngày nắng nóng mỗi tháng làm giảm khoảng 0,5% giờ làm việc hàng tuần và 0,7% thu nhập hàng tháng. Và tác động này thậm chí còn rõ rệt hơn khi liên quan đến ô nhiễm : Tăng thêm một microgam trên một mét khối hạt mịn PM2.5 dẫn đến giảm 1% số giờ làm việc, tương ứng với việc bị mất 1 tiếng 45 phút mỗi tháng. Ô nhiễm cũng tác động đến thu nhập hàng tháng, theo đánh giá trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,7%, khoảng 129.000 đồng/tháng, tương đương từ 3 đến 4% mức lương tối thiểu thấp nhất theo chuẩn 2023. Xin lưu ý rằng hiện tại chúng tôi đang tiến hành bản phân tích thứ 10 để hiểu rõ hơn về tác động của ô nhiễm, cũng như nhiệt độ khắc nghiệt đối với sức khỏe. Bài báo nghiên cứu thứ hai sẽ phân tích tác động đến chi phí y tế và tỷ lệ tử vong. RFI : Trong nghiên cứu, bà và cộng sự cũng đề cập đến sự bất bình đẳng về tác động của ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan đối với người lao động. Tại sao lại có sự bất bình đẳng này ? Cecilia Poggi : Không phải tất cả người lao động đều bị tác động như nhau, và nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng không phải tất cả đều có thể thích nghi như nhau. Cho nên xuất hiện sự bất bình đẳng trước những hiện tượng này. Nghiên cứu cho thấy rằng người lao động thường xuyên phải làm việc theo giờ cố định không thể dễ dàng bù đắp số giờ bị mất, cho nên họ cảm nhận được tác động của ô nhiễm nhiều hơn so với những người lao động tự do vì những người này có thể phân bổ khối lượng công việc của họ trong nhiều ngày. Một điều đáng quan tâm là những người lao động ngoài trời, mặc dù tiếp xúc nhiều hơn với hiện tượng biến đổi khí hậu, nhưng thực sự lại ít bị ảnh hưởng hơn khi họ tự kinh doanh, làm việc độc lập bởi vì họ có thể sắp xếp lại công việc của mình. Ví dụ trường hợp của những nông dân tự do ở nông thôn hoặc những người bán hàng rong ở thành phố. Ngược lại, khi nhân viên phải làm việc ở ngoài trời, ví dụ trong ngành xây dựng, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những tác động tiêu cực rõ rệt hơn nhiều. Đọc thêmCơ quan AFD của Pháp hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết khí hậu RFI : Liệu có một vùng hoặc nhiều vùng ở Việt Nam bị tác động nặng hơn cả từ những hiện tượng ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan này ? Cecilia Poggi : Để trả lời câu hỏi này, trước tiên tôi muốn nhắc lại rằng các vùng miền ở Việt Nam chịu mức độ ô nhiễm khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện thời tiết. Một nghiên cứu bổ sung mà đồng tác giả là phó giáo sư Nguyễn Thị Nhật Thanh thuộc trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy có sự biến động mạnh mẽ theo vùng về cách tình trạng ô nhiễm biển đổi tùy thuộc vào thời tiết hoặc hiện tượng khí tượng. Do đó câu trả lời không đơn giản như vậy, bởi vì, ví dụ, ở miền Bắc Việt Nam, những thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng đến ô nhiễm không khí về lâu dài, trong khi lượng mưa và tốc độ gió lại có tác động ngay lập tức trong việc thay đổi nó. Tuy nhiên, những tác động này không giống ở miền Nam Việt Nam, nơi tất cả các tác động có xu hướng xảy ra ngay lập tức. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng ở cấp độ quốc gia, các tác động xấu của các hiện tượng nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm đối với thời gian làm việc thể hiện rõ rệt ở khu vực thành thị hơn là khu vực nông thôn. Tiếp theo, nếu gộp các khu vực thành vùng lớn như miền Nam, miền Trung hoặc miền Bắc, chúng ta cũng thấy rằng trong cả hai trường hợp, tác động của những ngày nắng nóng hoặc các đợt ô nhiễm ở miền Nam rõ rệt hơn so với miền Bắc hoặc miền Trung. Và với những tác động này, chúng tôi khuyến nghị rằng các biện pháp đối phó, phòng ngừa nên được thực hiện tùy theo các khu vực và phải được thử nghiệm bởi các cơ quan chức năng, đặc biệt là về mặt bảo vệ việc làm trước những thách thức ô nhiễm. Đọc thêm“Xanh hóa” giao thông Hà Nội: Cần bỏ ôtô cá nhân thể hiện “thành đạt” và kết nối hệ thống công cộng RFI : Vậy, trước những hiện tượng này, các nhà nghiên cứu khuyến nghị chính phủ Việt Nam nên có những biện pháp nào để giải quyết ? Cecilia Poggi : Dựa trên kết quả nghiên cứu, trước tiên cần xem xét việc bổ sung các cách thức liên quan tới sức khỏe và an toàn lao động. Việt Nam hiện đã lập giới hạn nhiệt độ đối với công việc trong nhà, nhưng chưa có tiêu chuẩn nào về chất lượng không khí tại nơi làm việc. Đây là một lĩnh vực mà Việt Nam có thể tham khảo từ các quốc gia đã đặt ra ngưỡng phơi nhiễm ô nhiễm không khí tại nơi làm việc. Thứ hai, các nhà hoạch định chính sách có thể thử nghiệm các giải pháp về công việc đặc thù để ứng phó với các đợt ô nhiễm cao, có tính đến đặc điểm công việc của người lao động. Ví dụ, đối với người lao động ở các khu vực đô thị bị ô nhiễm, chúng ta  có thể phân tích chi tiết hơn xem liệu thời gian làm việc linh hoạt hoặc làm việc từ xa có thể vẫn cho phép duy trì năng suất trong những ngày ô nhiễm cao hay không. Cuối cùng, để tiếp tục các chính sách về môi trường cũng cần giải quyết gốc rễ của ô nhiễm. Vì vậy, về lâu dài, việc tiếp tục thực hiện các chính sách môi trường đang triển khai sẽ góp phần cải thiện đời sống của mọi người với việc giảm phát thải, tăng cường giao thông công cộng bền vững và thêm không gian xanh. Bên cạnh đó cũng không được quên những thách thức quan trọng, ví dụ như cần hạn chế việc cứng hóa nền đất hay bê tông hóa quá mức trong quá trình đô thị hóa. Đọc thêmMoov’Hanoi : Đưa giao thông công cộng thành phương thức di chuyển hấp dẫn ở Hà Nội RFI : Nghiên cứu này nằm trong khuôn khổ chương trình GEMMES Việt Nam. Xin bà giải thích thêm về chương trình này và nghiên cứu của bà trong khuôn khổ chương trình ! Cecilia Poggi : GEMMES Việt Nam giai đoạn 2 là chương trình nghiên cứu ba năm do Cơ quan Phát triển Pháp - AFD tài trợ, phối hợp với Cục Biến đổi Khí hậu, bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam và được triển khai với sự hợp tác của các chuyên gia và tổ chức khoa học, đại học Việt Nam. Trong giai đoạn 1, chương trình tập trung vào vấn đề khí hậu. Giai đoạn 2 hiện nay hỗ trợ chính phủ thực hiện tham vọng trung hòa các-bon và đồng thời trở thành một quốc gia có thu nhập cao. Cụ thể hơn, chúng tôi có ba trục nghiên cứu. Trục đầu tiên tìm cách hiểu rõ hơn về các đợt nắng nóng cực đoan bằng cách nghiên cứu các mô hình khí hậu. Trục thứ hai xem xét các tác động kinh tế vĩ mô của quá trình chuyển đổi năng lượng. Trục thứ ba, trong đó có nghiên cứu mà chúng ta đang đề cập, xem xét cách biến đổi khí hậu và quá trình chuyển đổi năng lượng tác động đến người dân, hay đúng hơn là các khía cạnh xã hội của những quá trình chuyển đổi này. Chương trình này thực sự là một ví dụ về sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu và các tác nhân công và cho thấy rằng nghiên cứu có thể hỗ trợ việc xác định và triển khai các chính sách công cho quá trình chuyển đổi sinh thái. Toàn bộ kết quả sẽ được hoàn thiện vào mùa hè 2026. Công chúng quan tâm có thể truy cập vào trang web của AFD, trên đó có một trang dành riêng cho chương trình GEMMES Việt Nam 2. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn kinh tế gia Cecilia Poggi, Cơ quan Phát triển Pháp - AFD.
    --------  
  • Biển Đông: Việt Nam cạnh tranh với Trung Quốc về hoạt động xây dựng đảo
    Theo một báo cáo của tổ chức Sáng kiến ​​Minh bạch Hàng hải Châu Á AMTI, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS ( Mỹ), được công bố ngày 22/08/2025, Việt Nam đã mở rộng đáng kể hoạt động xây dựng đảo tại các khu vực mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Theo báo cáo, những hoạt động này của Việt Nam “sẽ nhanh chóng ngang bằng, thậm chí có thể vượt qua” quy mô hoạt động tương tự của Trung Quốc tại khu vực đó. Các ảnh vệ tinh gần đây cho thấy, kể từ đầu năm nay, Việt Nam đã mở rộng hoạt động xây dựng đảo trên 8 thực thể, cụ thể là đã tiến hành nạo vét và san lấp tại Bãi Tốc Tan ( Alison Reef ), Đá Cô Lin ( Collins Reef ), Đá Đông ( East Reef ), Đá Len Đao ( Lansdowne Reef ) và Đá Núi Thị ( Petley Reef ). Như vậy là toàn bộ 21 bãi đá và bãi cạn lúc triều thấp mà Việt Nam chiếm hữu trong quần đảo Trường Sa hiện đã được mở rộng để bao gồm cả đất nhân tạo, trong khi bốn năm trước phần lớn chỉ là các công trình bê tông cốt thép biệt lập.  Báo cáo cho biết hoạt động mở rộng mới cũng đã bắt đầu tại những đảo nhân tạo cỡ trung đã được xây dựng trong các đợt nạo vét trước đó: Đảo An Bang ( Amboyna Cay), Đảo Sinh Tồn Đông ( Grierson Reef ) và Đá Tây ( West Reef ). Theo báo cáo, "tính đến tháng 3 năm 2025, Việt Nam đã tạo ra khoảng 70% diện tích đất nhân tạo ở quần đảo Trường Sa so với Trung Quốc". Việc cải tạo tại tám thực thể mới này gần như đảm bảo rằng Việt Nam "sẽ ngang bằng - và có thể vượt qua - quy mô xây dựng đảo của Bắc Kinh."  Theo báo cáo của AMTI, các hình ảnh cho thấy cơ sở hạ tầng, bao gồm các container chứa đạn dược, đang bắt đầu xuất hiện trên các rạn san hô mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, những nơi mà công việc nạo vét sắp hoàn tất, chẳng hạn như Bãi Thuyền Chài ( Barque Canada ), Đá Lớn ( Discovery Great Reef ), Đá Lát ( Ladd Reef ), Đảo Nam Yết ( Namyit Reef ), Đảo Phan Vinh ( Pearson Reef ), Đảo Sơn Ca ( Sand Cay ) và Đá Tiên Nữ ( Tennent Reef ).  Việt Nam chưa đưa ra bình luận công khai nào về hoạt động cải tạo mới nhất của mình, một sự im lặng phù hợp với cách tiếp cận kín đáo của Hà Nội ở Biển Đông. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 27/08/2025, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhận định: “Về chuyện này có vẻ chắc chắn là Việt Nam không bao giờ lên tiếng. Năm trước, Việt Nam đã bồi lấp và mở rộng, năm nay họ cũng đang làm như vậy thì tôi nghĩ cũng là hợp lý, bình thường thôi. Hiện nay, tất cả các công trình đó, theo AMTI, đã bằng 70% so với Trung Quốc. Có lẽ Việt Nam sẽ là một đối thủ quan trọng đối với Trung Quốc. Điều này đối với Việt Nam có thể là vừa có lợi và có hại. Cái lợi là Việt Nam có thể chống đỡ được khá nhiều với Trung Quốc, có thể mở rộng và cạnh tranh với Trung Quốc. Nhưng mặt khác, có thể Trung Quốc sẽ có phản ứng, thì Việt Nam cũng phải hứng chịu. Trên khu vực Biển Đông thì chúng ta biết quan điểm Trung Quốc từ xưa đến nay: Bao giờ họ cũng khẳng định toàn bộ Biển Đông đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc cũng không dựa trên cái gì cả, mà chỉ dựa trên cái gọi là đường chín đoạn, chiếm khoảng chừng 80% Biển Đông. Và gần đây thì họ còn mở rộng hơn rất nhiều. Theo thông tin của Mỹ, họ đã mở rộng đến khoảng 90% Biển Đông.  Việt Nam cùng với nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á cũng đã đòi những vùng biển thuộc về họ, nhưng có lẽ chỉ có Việt Nam là tập trung sức lực và đủ sức cạnh tranh với Trung Quốc trên Biển Đông.  Trung Quốc nói là không ai có quyền mở rộng Biển Đông ngoài họ, nhưng Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào hết, bởi vì từ những năm 1935, Trung Quốc còn chưa nghĩ tới chuyện đi buôn xa hơn và một số bản đồ của nhà Thanh cũng cho thấy Trung Quốc chỉ ở trong vùng phụ cận thôi chứ không có đi ra xa. Có lẽ sau này Trung Quốc cảm thấy những đảo này cần thiết, cho nên họ tìm mọi cách để đưa vào trong bản đồ, trong sách lịch sử cho trẻ con học, khiến cho người dân Trung Quốc cảm thấy Biển Đông là của họ, mặc dù họ không có bằng chứng nào cả và thậm chí bằng chứng của họ đã bị tòa án quốc tế năm 2016 ra phán quyết bác bỏ trong vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2013.  Tuy nhiên chúng ta thấy rằng là Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ đường lưỡi bò. Gần đây, bản đồ của họ còn vẽ thêm thành 10 đoạn chứ không phải 9 đoạn, với một đoạn ở khu vực Đài Loan nữa. Họ vẫn cho thấy luật pháp quốc tế không là cái gì cả.” Báo cáo mới của AMTI được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Philippines trên Biển Đông. Gần đây nhất, vào tháng 7, ở phía bắc quần đảo Trường Sa gần Bãi cạn Scarborough, một tàu khu trục của hải quân Trung Quốc đã va chạm với một tàu Hải cảnh Trung Quốc khi các tàu này đang quấy rối một tàu của lực lượng tuần duyên Philippines trong vùng biển tranh chấp.  Các nhà phân tích được kênh truyền hình Mỹ CNN trích dẫn ngày 29/08 cho rằng các xung đột giữa Trung Quốc và Philippines có thể đã tạo cho Việt Nam "một vỏ bọc tuyệt vời" cho hoạt động xây dựng trên các đảo mà họ kiểm soát. Collin Koh, nghiên cứu viên tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore, ghi nhận:  “Hiện tại, phần lớn sự chú ý của Trung Quốc đang hướng về Philippines, và họ muốn duy trì một mặt trận ổn định với các đối thủ Đông Nam Á khác ở Biển Đông”. Ray Powell, giám đốc của SeaLight, một dự án minh bạch hàng hải tại Trung tâm Đổi mới An ninh Quốc gia Gordian Knot, thuộc Đại học Stanford, đồng tình với nhận xét của Collin Koh:  “Dường như Bắc Kinh đã tính toán rằng nên giữ Philippines cô lập khỏi các bên có tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông hơn là ngăn cản Việt Nam đạt được những bước tiến đáng kể về lãnh thổ”.  Thật ra thì Trung Quốc đã có lên tiếng phản đối Việt Nam về những hoạt động xây dựng đảo theo như báo cáo của AMTI. Ngày 25/08, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Ông Quách Gia Khôn tuyên bố: "Quần đảo Nam Sa (Trường Sa) là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc và Trung Quốc kiên quyết phản đối các hoạt động xây dựng của các quốc gia liên quan trên các đảo và rạn san hô bị chiếm đóng trái phép, đồng thời sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và quyền hàng hải của mình."  Như vậy là sau báo cáo của AMTI, Biển Đông có thể sẽ khiến quan hệ Việt - Trung căng thẳng trở lại, trong lúc bang giao giữa hai nước đang trong giai đoạn nồng ấm. Tuy vậy, các nhà phân tích như Collin Koh, nghiên cứu viên cao cấp tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, cho rằng chỉ riêng quy mô của những đảo nhân tạo này sẽ không làm thay đổi cán cân chiến lược của khu vực. Theo các nhà quan sát, Hà Nội có thể sẽ coi các hoạt động nói trên là mang tính phòng thủ, củng cố các thực thể mà họ đã chiếm hữu để đáp trả nhiều năm mà Trung Quốc quân sự hóa các đảo mà Bắc Kinh đang kiểm soát. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cũng có nhận định tương tự:   “Chúng ta biết Việt Nam là một quốc gia kiên trì đấu tranh ở Biển Đông từ rất lâu. Nhiều năm trước, những năm 1980, Việt Nam cũng đã chịu nhiều áp bức từ phía Trung Quốc. Thế nhưng Việt Nam vẫn cố gắng và vẫn nghĩ có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình trên các đảo này. Cho nên Việt Nam hết sức bảo vệ. Hiện nay, quần đảo Hoàng Sa thì Việt Nam không thể giữ được nữa, nhưng ở quần đảo Trường Sa thì Việt Nam đã giữ khá nhiều cơ sở ở đó. Theo những con số mà của AMTI đưa ra,  phía Việt Nam cũng đã mở rộng rất nhiều và thứ nhất là sẽ khiến cho ngư dân Việt Nam an tâm hơn. Khi đánh bắt xa bờ, nếu có chuyện gì thì họ có thể quay về trở về để tránh bão. Thứ hai, Việt Nam cũng nghĩ rằng những công trình xây dựng trên biển hay bị hư hại, không giống như trên đất liền, cho nên Việt Nam cũng phải sửa chữa. Và thứ ba là Việt Nam cũng muốn thể hiện cho Trung Quốc thấy rằng Việt Nam mạnh mẽ nhắc đến chủ quyền. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có đủ bằng chứng, đủ căn cứ pháp lý để xây dựng, thì tại sao không xây dựng?”   Tuy nhiên, theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 27/08, các nhà phân tích cảnh báo rằng việc Việt Nam mở rộng hoạt động xây dựng đảo ở Trường Sa “có thể làm gia tăng căng thẳng trong nội bộ ASEAN, khi các quốc gia thành viên và các bên có yêu sách đối nghịch nhau tìm cách cân bằng giữa tranh chấp chủ quyền với sự đoàn kết, thống nhất trong khối." Ngoài Việt Nam, các thành viên ASEAN khác là Philippines, Malaysia và Brunei đều có các tuyên bố chủ quyền đối lập, trong khi Bắc Kinh khẳng định chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông.  South China Morning Post trích dẫn ông Tô Minh Sơn, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Úc, chuyên nghiên cứu về quan hệ quốc tế Đông Nam Á: cho biết: "Hà Nội sẽ kết hợp điều đó với việc ủng hộ các cuộc đàm phán về Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và về Bộ quy tắc ứng xử  trên Biển Đông (COC), cùng với việc quản lý song phương một cách kín đáo với các bên có yêu sách khác, đồng thời duy trì các kênh liên lạc với Trung Quốc".  Ông Tô Minh Sơn nói thêm, mặc dù hoạt động nạo vét của Việt Nam "sẽ khiến việc truyền tải thông điệp của ASEAN trở nên khó khăn hơn [...] nhưng nó sẽ không chia rẽ khối này". Đồng thời ông lưu ý rằng các bên yêu sách khác như Philippines cũng tập trung vào hành vi của Trung Quốc. Việc thắt chặt quan hệ giữa Hà Nội và Manila - bao gồm đường dây nóng của lực lượng bảo vệ bờ biển và các giao thức phòng ngừa sự cố - có thể giúp cả hai quốc gia quản lý tốt các yêu sách chồng chéo, đồng thời thể hiện một mặt trận thống nhất hơn đối với Trung Quốc.  Còn theo nhận định của ông Vũ Lâm, một nhà phân tích chính sách và quan sát viên ASEAN, cũng được South China Morning Post trích dẫn, nhìn chung, Việt Nam “không muốn làm xáo trộn mối quan hệ với ASEAN, vốn vẫn là một trong những thành tựu về chính sách đối ngoại quan trọng nhất mà họ đã đạt được trong lịch sử gần đây".  Đối với chuyên gia Biển Đông Hoàng Việt, phản ứng của các bên tranh chấp khác trong khối Đông Nam Á sẽ chỉ có mức độ nào đó thôi: Chúng ta biết là giữa các nước Đông Nam Á vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Có những điều mà chúng ta có thể hợp tác được, nhưng cũng có những điều mà chúng ta phải đấu tranh với nhau, như Philippines cũng có những cái đấu tranh với Việt Nam. Đương nhiên là giữa các quốc gia nhỏ thì nói chuyện dễ dàng hơn. Thực ra việc bồi lấp một số đảo này có lẽ không phải là vấn đề quá quan trọng. Việt Nam cũng đã bằng lòng với nhiều quốc gia rồi. Hiện nay cũng thấy ít quốc gia lên tiếng. Tôi nghĩ rằng cũng sẽ có một số quốc gia phản đối, nhưng phản đối có mức độ thôi, chứ còn đáng lo ngại nhất vẫn là từ phía  Bắc Kinh. Trung Quốc vẫn quen làm trùm khu vực rồi. Họ lớn, họ mạnh, cho nên họ là luật quốc tế. Thế nhưng quan trọng nhất là Trung Quốc lại không có cơ sở hợp lý để bảo vệ chủ quyền của họ trên Biển Đông. Trung Quốc đưa ra những lập luận hết sức là mơ hồ và trái với luật pháp quốc tế, như là đường 9 đoạn. Thế nhưng, việc này đã được đưa ra tòa  án quốc tế một lần rồi và nếu các quốc gia tiếp tục đưa ra tòa thì Trung Quốc cũng sẽ bị những phán quyết tương tự như vậy.  Trung Quốc nghĩ rằng làm mạnh như vậy thì họ có thể làm thay đổi cả thế giới. Tôi nghĩ sẽ khó đấy. Sức mạnh là sức mạnh, nhưng không phải lúc nào muốn là làm được, mà luật pháp quốc tế có giá trị của nó.”
    --------  
  • Vũ khí: Hàn Quốc giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào Nga
    Từ đối tác kinh tế tin cậy, Việt Nam và Hàn Quốc tiến một bước lớn trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng. Hợp đồng cung cấp 20 pháo K9 Thunder của tập đoàn Hanwha Aerospace, trị giá 250 triệu đô la Mỹ mở ra hướng đi mới cho xuất khẩu vũ khí cho Hà Nội. Việt Nam là khách hàng thứ 11 trên thế giới của loại pháo K9 nhưng đây là lần đầu tiên Hàn Quốc xuất khẩu vũ khí sang một nước Cộng Sản. Đây cũng là lần đầu tiên, Hà Nội mua vũ khí của Seoul trong bối cảnh muốn đa dạng nguồn cung để giảm bớt phụ thuộc vào Nga. Thỏa thuận này được đúc kết sau chuyến thăm cấp Nhà nước từ ngày 10-13/08/2025 của tổng bí thư Tô Lâm tới Seoul. Theo trang Korea Herald, việc giao hàng sẽ được quản lý thông qua Cơ quan Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Hàn Quốc và dự kiến ​​hoàn thành vào cuối năm 2025. Để hiểu thêm về ý nghĩa của hợp đồng vũ khí đầu tiên này và mối quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam - Hàn Quốc, RFI Tiếng Việt phỏng vấn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc. RFI : Việt Nam mua 20 pháo tự hành K9 Thunder do tập đoàn Hàn Quốc Hanwha Aerospace sản xuất, trị giá 250 triệu đô la. Hợp đồng sẽ được bàn giao vào cuối năm nay. Đây là lần đầu tiên Việt Nam mua vũ khí của Hàn Quốc, trong khi Nga vẫn là nhà cung cấp chính. Về phía Seoul, đây cũng là lần đầu tiên xuất khẩu vũ khí cho một quốc gia Cộng Sản, theo như nhận định của một chuyên gia Hàn Quốc. Xin anh cho biết đối với cả hai nước, hợp đồng “lần đầu tiên” có ý nghĩa như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Hợp đồng này có nhiều hàm ý. Thứ nhất, lần đầu tiên nó mở ra một thị trường nhập khẩu vũ khí mới cho Việt Nam. Trước đây, tầm 70 tới 80% số lượng vũ khí của Việt Nam là nhập từ Nga và một phần nhỏ khác là nhập từ một số nước Đông Âu, Israel. Bây giờ Hàn Quốc trở thành một thị trường nhập khẩu vũ khí cực kỳ tiềm năng cho Việt Nam. Hàm ý thứ hai, sau cuộc chiến Nga Ukraina, Việt Nam đã cố gắng đa dạng hóa nguồn cung vũ khí. Và thành công bước đầu là có thêm được một đối tác nhập khẩu vũ khí mà có thể nói là tương đối bền vững. Vì Hàn Quốc suy cho cùng cũng là một trong những nước đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam - Hàn Quốc mặc dù mới thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1993 nhưng quan hệ toàn diện từ chính trị, kinh tế, xã hội đặc biệt là quan hệ giữa người dân với nhau, từ đó tới nay phát triển rất tốt và dự báo là cũng sẽ phát triển tiếp. Đọc thêmCông nghiệp quốc phòng Hàn Quốc giúp Việt Nam tự chủ an ninh, đa dạng hợp tác Và có thể trong tương lai, Việt Nam cũng sẽ tìm kiếm thêm một số đối tác khác, không phải là các đối tác truyền thống trước đây như Ấn Độ hay Iran nữa mà là những đối tác mới, bây giờ là Hàn Quốc, sau này có thể là Thổ Nhĩ Kỳ. Đây chỉ là một bước đầu trong nỗ lực đa dạng hóa của nguồn cung vũ khí. Và thứ ba, nó thể hiện sự đa phương hóa và đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế - chiến lược ngoại giao của Việt Nam vốn đã bắt đầu từ năm 2003 cho tới bây giờ - và nó mang lại một số kết quả khích lệ trong bối cảnh tình hình thế giới đang diễn biến hết sức phức tạp, hết sức khó lường và ưu tiên chính sách ở thời điểm hiện tại vẫn phải là chuẩn bị cho năng lực quốc phòng đạt được hiệu quả răn đe nhất định. RFI : Trong cẩm nang thị trường quốc phòng về Việt Nam công bố tháng 12/2024, Cơ quan Quản lý Chương trình mua sắm Quốc phòng Hàn Quốc (DAPA) đã liệt kê các mặt hàng xuất khẩu đầy hứa hẹn sang Việt Nam vào năm 2033 (pháo tự hành K9, hệ thống tên lửa địa đối không tầm trung Cheongung-II, hệ thống ngắm pháo cho xe bọc thép và xe tăng, hệ thống nhận dạng laser…). Căn cứ vào những con số này, có thể thấy là hợp tác quốc phòng song phương đầy tiềm năng. Những yếu tố nào có thể giải thích cho việc hai nước tăng cường phát triển hợp tác quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : Yếu tố để giải thích thì một phần tôi đã trình bày ở trên : Đó là nhu cầu mua sắm quốc phòng của Việt Nam hiện tại là rất lớn trong bối cảnh những thách thức an ninh khu vực nổi lên, không chỉ là vấn đề Biển Đông với Trung Quốc mà còn là vấn đề an ninh phi truyền thống ở phía Tây nữa, đặc biệt là vấn đề sông Mêkông, phòng chống tội phạm buôn người xuyên quốc gia. Những yếu tố an ninh như vậy yêu cầu là quá trình hiện đại hóa quân đội Việt Nam phải được đẩy mạnh và mang tính hiệu quả. Nhu cầu quốc phòng lớn nhưng mà bạn hàng truyền thống - đó là Nga - hiện tại đang gặp cực kỳ nhiều rắc rối. Trong bối cảnh đó và dưới áp lực phải hiện đại hóa một cách hiệu quả, việc đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, tìm tới những đối tác vừa truyền thống, vừa an toàn, vừa bền vững, là một hướng đi tất yếu thì Hàn Quốc nằm trong sự lựa chọn đó. Đọc thêmHàn Quốc : Phát triển công nghiệp quốc phòng để tự vệ ? Điểm thứ hai, tại sao là Hàn Quốc mà không phải là một số quốc gia khác ? Thứ nhất, Hàn Quốc có nền công nghiệp quốc phòng mạnh, hiện nay là quốc gia xuất khẩu vũ khí đứng hàng thứ tư thế giới. Các loại công nghệ quốc phòng của họ được đánh giá tiên tiến hàng đầu thế giới, đặc biệt tại những mảng công nghệ và những mảng vũ khí mà Việt Nam đang cần, ví dụ pháo binh, các loại công nghệ vũ khí phòng không. Đặc biệt là ngành công nghiệp đóng tàu chiến Hàn Quốc. Ngành công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc nói chung là gần như số 2, số 3 thế giới, chỉ sau Trung Quốc với Nhật Bản và nhiều khi Hàn Quốc còn cân bằng với Nhật Bản. Đối với Việt Nam, nhu cầu đóng tàu cũng như là nhu cầu về những mặt hàng vũ khí phòng không, không quân ở thời điểm hiện tại là rất cần thiết tại vì Nga đang bị cấm vận. Cho nên việc có một bạn hàng mới giỏi về vấn đề đóng tàu và các loại vũ khí không quân là cần thiết. Và Việt Nam có thể tận dụng điều đó trong mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Hàn. Tiếp theo, quan hệ chính trị ngoại giao và quốc phòng giữa Việt Nam với Hàn Quốc khá là sâu rộng và cả hai nước có một niềm tin chiến lược chiến lược nhất định. Nó khác với Mỹ. Ở thời điểm hiện tại, có vẻ Việt Nam không có nhiều lòng tin chiến lược với Mỹ. Cho nên là một số dự án hợp tác quốc phòng tiềm năng giữa Việt Nam và Mỹ đang hơi bị trì hoãn, ví dụ đàm phán mua máy bay vận tải C130 đang bị trì hoãn rất là nhiều bởi vì rất nhiều vấn đề khác nhau. Đọc thêmTriển lãm quốc phòng quốc tế: Việt Nam tìm giải pháp thay thế vũ khí Nga Chưa kể rằng yếu tố ý thức hệ cũng là một trong những điểm khiến cho hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và phương Tây nói chung, cũng như là giữa Việt Nam và Mỹ nói riêng, có một số rào cản lớn. Những điểm đó đối với quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc hầu như rất là nhỏ. Mặc dù là một trong những quốc gia đồng minh của Mỹ nhưng Hàn Quốc nằm trong vùng văn hóa Đông Á. Họ hiểu được cách thức mà chính trị ở các quốc gia Đông Á cũng như Đông Nam Á vận hành. Họ chấp nhận mối quan hệ đó, do vậy niềm tin chiến lược giữa hai bên là có. Bởi vì có niềm tin chiến lược, cho nên những rào cản như Việt Nam đối mặt với Mỹ hay phương Tây nằm ở mức tối thiểu. Do đó nó cho phép Hàn Quốc có thể chuyển giao công nghệ tới Việt Nam, đặc biệt là một số loại công nghệ quân sự nhạy cảm mà không gặp phải nhiều rào cản quá lớn. Trong khi vấn đề dân chủ, nhân quyền hay là những vấn đề liên quan tới rào cản kỹ thuật hoặc là sự cho phép sử dụng vũ khí giữa Việt Nam và Mỹ, lại lớn. Yếu tố niềm tin chiến lược trong chính trị và quân sự chính là một điểm nổi bật khiến cho Hàn Quốc trở thành một trong những đối tác quốc phòng mới của Việt Nam ở thời điểm mà nhu cầu mua sắm vũ khí của Việt Nam là cấp thiết. RFI : Như anh đã đề cập ở trên về năng lực đóng tàu của Hàn Quốc thì Việt Nam cũng có nhu cầu về tàu tuần tra tốc độ cao và tàu ngầm nhỏ để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Liệu đây có phải là một vấn đề tế nhị mà cả Việt Nam và Hàn Quốc cần hết sức chú ý vì đều không muốn khiêu khích Trung Quốc ? Nguyễn Thế Phương : Tác động tới quyết định Việt Nam mua vũ khí của nước nào, thực ra sức ép của Trung Quốc là có. Nhưng yếu tố Trung Quốc không có tác động quyết định tới việc là Việt Nam mua vũ khí, tàu chiến hay là máy bay của bất kỳ nước nào. Những mặt hàng như là tàu tuần tra cỡ nhỏ hoặc là tàu ngầm mini, thực ra Việt Nam đã có thể tự chế tạo được những gam tàu đó. Điều mà Việt Nam cần ở hiện tại và điều mà Hàn Quốc có thể cung cấp là khả năng đóng những gam tàu lớn. Hiện nay tàu chiến lớn nhất của Việt Nam, không tính của cảnh sát biển, dao động tầm 1.200 tới 1.500 tấn. Điều mà Việt Nam cần hiện nay là những tàu chiến cỡ lớn, có khả năng hoạt động biển xa, trang bị các loại vũ khí phòng thủ cũng như tấn công phù hợp, tầm từ 3.000 tới 6.000 tấn. Hiện tại phải nói là Việt Nam chưa có đủ tiềm lực để đóng những cái gam tàu cỡ lớn như vậy. Với ví dụ Philippines cho thấy rằng Hàn Quốc có thể có tiềm năng trong tương lai cung cấp công nghệ, cũng như giúp Việt Nam đóng những gam tàu chiến có độ giãn nước lớn từ 3.000 đến 6.000 tấn. Còn dưới 2.000 tấn thì theo sự tìm hiểu của tôi, ở thời điểm hiện tại Việt Nam có khả năng tự đóng được. Ngay cả một số dự án tàu ngầm mini cỡ từ 1.000 tấn chở xuống thì Việt Nam cũng đã có thể tự đóng. Mặc dù chưa xác định rõ được tính hiệu quả trong tác chiến của các loại vũ khí hải quân đó nhưng về mặt công nghệ thì Việt Nam đã đóng được rồi. Trung Quốc sẽ không ảnh hưởng gì tới quyết định đó bởi vì đó là nhu cầu Việt Nam. Và Trung Quốc cũng hiểu rằng khoảng cách về mặt quyền lực, về mặt quân sự giữa hai bên quá là lớn. Việt Nam mua thêm khoảng một vài tàu cũng không làm thay đổi mấy cán cân quyền lực, chỉ là Việt Nam cải thiện hơn một chút khả năng răn đe về hướng biển. Đọc thêmTriển lãm Quốc phòng : Việt Nam thể hiện “khả năng răn đe”, hướng đến xuất khẩu thiết bị quân sự RFI : Sau 17 năm không hoạt động, Ủy ban hợp tác Quốc phòng và Quân sự Hàn Quốc - Việt Nam đã được khôi phục. Quyết định này mang ý nghĩa như thế nào ? Và Ủy ban sẽ hoạt động như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Ủy ban Hợp tác Quốc phòng Việt Nam Hàn Quốc là một cơ quan làm cầu nối để có thể trao đổi về những nhu cầu, cũng như là những mong muốn của hai bên về hợp tác quốc phòng. Nó sẽ đẩy nhanh quá trình trao đổi thông tin, quá trình ra quyết định chính sách, quá trình tham vấn chính sách giữa hai bên để có được những quyết định phù hợp, không những trong mua sắm vũ khí, khí tài, mà còn trong hợp tác những vấn đề an ninh khác, ví dụ như là những vấn đề phi truyền thống hay là những hợp tác ngoại giao quốc phòng, chia sẻ thông tin… Nói tóm lại, ủy ban này là một cơ chế song phương mang tính kết nối - coordination để hai bên đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc phòng, vốn dĩ là sắp tới cộng với việc hai bên đã là đối tác chiến lược toàn diện rồi, thì ngoài kinh tế, tài chính, đầu tư - FDI, thì quốc phòng sẽ là một trong những trụ cột mới trong quan hệ hợp tác song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc. RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn anh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Úc. 
    --------  

About Tạp chí Việt Nam

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam
Podcast website
Social
v7.23.9 | © 2007-2025 radio.de GmbH
Generated: 10/17/2025 - 7:57:08 PM